In bài này

Tư liệu -32- Bệnh hệ niệu và sinh dục

 Lương y Tạ Minh

2.1. RỐI LOẠN TIỂU TIỆN

            RLTT gồm có các triệu chứng tiểu ít, tiểu gắt, tiểu lắt nhắt, tiểu khó, tiểu gấp, tiểu nhiều, tiểu đêm, tiểu vàng sẫm, tiểu đỏ, bí tiểu và vô niệu. Trung bình một ngày đêm mỗi người đi tiểu chừng 3 đến 5 lần. Như thế nếu tiểu ít lần thì mỗi lần phải tăng lượng lên, nếu tiểu lượng ít thì số lần phải tăng lên. Tổng lượng nước tiểu khoảng 1,5 lít màu hơi vàng nhạt hơn màu bia một chút. Tuy nhiên số lượng và lần đi tiểu thay đổi theo thời tiết, hoạt động và ăn uống của mỗi người. Vì lý do thời tiết hay hoạt động làm ra nhiều mồ hôi hay đang bị tiêu chảy thì nước tiểu sẽ giảm xuống và màu sắc đậm hơn. Chỉ xem là bệnh lý khi triệu chứng RLTT không thay đổi theo các yếu tố gây ảnh hưởng nêu trên.
1)                  Tiểu ít: Tiểu ít gồm có số lượng ít hay số lần đi tiểu ít. Nếu bịnh nhân ra nhiều mồ hôi thì gốc bệnh ở chỗ mồ hôi ra nhiều chứ không phải ở đường tiểu (cần điều trị làm giảm mồ hôi). Nếu bịnh nhân đi tiêu lỏng và nhiều lần trong ngày thì gốc ở đường đại tiện (cần điều trị tiêu chảy). Nếu tình hình mồ hôi và đại tiện của bịnh nhân bình thường thì đây mới là bệnh lý ở hệ niệu. Gốc bệnh do Tam tiêu không thông, ít chịu ảnh hưởng của hàn nhiệt. Chỉ cần tác động khai thông tam tiêu và phản chiếu thận.
2)                  Tiểu gắt: Tiểu gắt là hiện tượng tiểu ít kèm theo khó đi tiểu và có cảm giác khó chịu vùng bộ phận sinh dục khi đi tiểu. Trường hợp này đa số là do nhiệt uất ở vùng hạ tiêu và Tam tiêu không thông. Điều trị như trên nhưng cần thêm giải pháp hạ nhiệt.
3)                  Tiểu lắt nhắt: là hiện tượng đi tiểu với số lượng ít nhưng nhiều lần trong ngày. Đây là một triệu chứng rất thường gặp do nhiều nguyên nhân khác nhau: thiếu máu (khám kỹ về huyết của bệnh nhân), cơ vòng bàng quang yếu (tiểu thì dễ mà nín tiểu thì khó), bàng quang bị chèn ép bởi một khối u trong hay ngoài nó hay sa bàng quang, có khi là phẩu tích bàng quang (luôn thấy nặng nề vùng này, có thể cần siêu âm để chẩn đoán phân biệt), viêm bàng quang mạn tính (kèm hiện tượng tiểu vàng, tiểu đục, khó chịu vùng bàng quang). Điều trị: theo cơ chế.
4)                  Tiểu khó: là mắc tiểu nhưng khi đi tiểu thì khó khăn, tiểu chậm chạp, đứng lâu mới tiểu được, thường són thêm nước tiểu sau khi tiểu xong. Nếu do sỏi bàng quang (sỏi tròn không gây đau – sỏi có cạnh bén thì gây đau) thì có lúc đi rất dễ dàng thông suốt, xem phần Sỏi niệu. Nếu do phì đại tiền liệt tuyến thì đi tiểu luôn luôn khó khăn. Đây là bệnh lý khó điều trị, kết quả chậm nếu u xơ, kết quả nhanh nếu phù nề. Chẩn đoán cần dựa vào kết quả siêu âm. Điều trị: viêm phù nề thì tiêu viêm lọc thấp, phản chiếu tiền liệt tuyến. U xơ thì Bổ Âm huyết, tiêu viêm, phản chiếu. Đề phòng ung thư tiền liệt tuyến, cần chẩn đoán thêm theo cận lâm sàng của Tây y.
5)                  Tiểu gấp: là mắc tiểu thì phải đi tiểu ngay không nín được. Số lượng nước tiểu bình thường chứ không ít. Theo Tây y thì chưa rõ cơ chế. Nhưng với Đông y thì do dương khí hạ hãm ở hạ tiêu. Cần dùng bộ Thăng, cần chẩn đoán hàn nhiệt để chọn kỹ thuật thích hợp.
6)                  Tiểu nhiều: là nhiều về số lần đi tiểu lẫn số lượng nước tiểu. Cần cảnh giác với bệnh tiểu đường. Theo Tây y có thể do có rối loạn ở tuyến tùng, tuyến yên. Với Đông y thì do thận dương suy. Cần khám kỹ về Âm Dương. Thường dùng bộ Thăng. Biện pháp ôn ấm.
7)                  Tiểu đêm: Với trẻ em thì thường là tiểu mế, tiểu dầm cần ổn định thần kinh. Với người lớn thì thường do thận dương suy – bộ Thăng làm chủ lực. Với người già thì cần lưu ý về tuyến tiền liệt.
8)                  Tiểu vàng sẫm: do nhiệt vùng hạ tiêu hoặc có thể ở tiểu trường. Thanh nhiệt tiêu viêm, phản chiếu.
9)                  Tiểu đỏ: là tiểu có máu. Đây là một bệnh viêm nhiễm đường niệu, thuộc diện cấp cứu nếu mới phát, nên ưu tiên cho bệnh nhân đi theo bác sĩ điều trị. Nếu đã điều trị theo Tây y mà không khỏi thì mới nên nhận điều trị vì nó đã chuyển sang viêm mạn. Chẩn đoán hàn nhiệt để dùng biện pháp chống viêm thích hợp. Tiêu viêm, phản chiếu nơi bị viêm trong hệ niệu dựa theo kết quả chẩn đoán của Tây y.
10)              Bí tiểu: là mắc tiểu nhưng không tiểu được. Bụng dưới của bệnh nhân căng cứng lên. Đây là trường hợp cấp cứu, chỉ tạm can thiệp trong khi chờ nhập viện. Có thể do: sỏi niệu, co thắt cơ vòng bàng quang (cần chẩn đoán hàn nhiệt). LƯU Ý: Đôi khi chúng ta can thiệp ngay được nhưng coi chừng nếu do sỏi bàng quang thì rất dễ tái phát. Do đó siêu âm chẩn đoán là biện pháp nên làm dù đã điều trị được.
11)              Vô niệu: là không có nước tiểu trong Bàng quang. Đôi khi bệnh nhân có cảm giác mắc tiểu nhưng không tiểu được, nếu không chẩn đoán kỹ ta sẽ lầm là bí tiểu! Cách chẩn đoán vô niệu là dùng tay ấn từ từ vào bụng dưới khu vực của bàng quang. Ta thấy không có lực đối kháng, hay nói cách khác ta sẽ cảm thấy vùng này trống rỗng (xẹp lép). Đây là một bệnh chứng do Thận mất khả năng lọc nước tiểu do đó không có nước tiểu. Là một loại bệnh khó, có nhiều nguyên nhân, tôi chưa thể kết luận được gì mặc dù đã có thành công!

  2.2. RỐI LOẠN KINH NGUYỆT

            RLKN xét cho cùng là rối loạn tổng thể theo cả hai khía cạnh Đông và Tây y. Với Tây y thì cần quan tâm về tuyến nội tiết và thần kinh cũng như thành phần máu là chính. Với Đông y thì do rối loạn về khí huyết âm dương. Nhưng nói chung vẫn không ngoài các chứng suy yếu âm dương khí huyết gây bế tắc hoặc không đủ huyết để hành kinh. Ngoài ra, đối với châm cứu thì sự bế tắc kinh mạch cũng là một nguyên nhân thường gặp. Cần phân biệt hàn nhiệt. Hàn thì có thực hàn và hư hàn, nhiệt thì hầu như chỉ do hư nhiệt (có gốc từ âm huyết hư), rất ít khi do thực nhiệt.
            Vì vậy, điều chỉnh RLKN chính là điều chỉnh âm dương khí huyết. Nói một cách cụ thể chính là điều chỉnh tổng thể. Ngày nào tổng thể cân bằng thì ngày đó kinh nguyệt được điều chỉnh xong. Do đó, không có phác đồ đặc hiệu.
            Nhưng với nghiên cứu cụ thể của Tây y, ngày nay chúng ta thấy khi bệnh nhân có u bướu trong tử cung thì thường gây rong huyết hoặc ngày hành kinh kéo dài. Do đó cần lưu ý khi điều trị không có hiệu quả rõ rệt. Tốt nhất là cho bệnh nhân siêu âm để loại trừ bệnh căn này trước khi nhận điều trị. Vì một u bướu thường bị xuất huyết rất dễ biến chứng thành ung thư.

2.3. SỎI NIỆU

            Sỏi niệu là có sỏi ở hệ thống bài tiết nước tiểu gồm thận, niệu quản và bàng quang. Sỏi được cấu tạo bằng nhiều chất và bằng nhiều phương thức khác nhau. Có loại rất dễ tan rã, có loại không tan được, nhưng siêu âm hay X quang không thể phân biệt được là loại nào (hiện nay, còn tương lai thì… chờ những tiến bộ của Tây y)!
            Chẩn đoán hàn nhiệt tổng thể và cục bộ hệ niệu. Điều trị: Điều chỉnh tổng thể, với cục bộ ta có các phản chiếu thường gặp sau:
1)                  Hệ niệu thuộc Đồ hình phản chiếu nội tạng ở mặt.
2)                  Hệ niệu thuộc Đồ hình phản chiếu nội tạng trên trán.
3)                  Hệ niệu nằm trong phản chiếu Đồ hình Dương (vùng huyệt 43 xuống đến 143, lan ra tuyến B hai bên).
4)                  Loa tai là thận, môi và cằm là bàng quang, niệu quản chạy từ 0 xéo theo bờ dưới xương gò má xuống đến vùng huyệt 38.
Kỹ thuật: với tổng thể ta chọn kỹ thuật thích hợp, điều chỉnh xong. Với cục bộ hệ niệu ta chọn lại kỹ thuật phù hợp, phản chiếu thì chỉ cần dùng hệ nào nhạy cảm nhất mà thôi:
-                    Có hàn: dùng ngải cứu hơ có xoa dầu theo hệ niệu.
-                    Có nhiệt: dùng lăn gai lăn mạnh theo hệ niệu. Lăn đinh hiệu quả cao hơn lăn cầu gai.
-                    Có thể kết hợp với kết quả cận lâm sàng: độ pH của nước tiểu thấp, ta cho bệnh nhân dùng thêm chất kiềm như rau ngò om, rau ngò gai… đại khái là chất chát. Độ pH của nước tiểu cao, ta cho bệnh nhân dùng thêm chất chua, trường hợp này chỉ dùng khi bệnh nhân không có tiền căn hay đang bị loét dạ dày tá tràng.
LƯU Ý:
-                    Ta nên khuyên bệnh nhân dùng mỗi ngày 4 - 5 hột Lười ươi (Ươi, Đười ươi) ngâm nước nở hoàn toàn, bỏ vỏ và hột, uống phần còn lại, có thể pha đường cho dễ uống. Vì sỏi hình thành được là do các protein có trong nước tiểu kết dính các tinh thể lại với nhau, hạt Ươi có thể làm tan các protein này giúp phần làm rã các tinh thể sỏi.
-                    Đa số các trường hợp sỏi thận lớn đều đưa đến huyết áp cao. Cần cẩn thận vì có thể gây tai biến tim mạch cho bệnh nhân.
-                    Ta thành công tương đối dễ dàng khi sỏi nhỏ 4-5 mm trở lại, nằm ở vùng bể thận, niệu quản hay bàng quang. Nếu sỏi nằm sâu trong nhu mô thận thì không thể trục xuất một cách dễ dàng được. Vì thế ta thấy có nhiều trường hợp thành công rực rỡ nhưng cũng không ít trường hợp thất bại.
-                    Cần dặn bệnh nhân: đang trong giai đoạn điều trị mà bỗng nhiên đau quặn bụng và vùng lưng tương ứng (cơn đau quặn thận) thì phải nhập viện ngay, đề phòng trường hợp khi sỏi đi ngang qua niệu quản làm rách niệu quản là một trường hợp thuộc dạng cấp cứu tại bệnh viện, nếu nằm ở nhà là không an toàn cho tính mạng bệnh nhân.
TP. Hồ Chí Minh, 1993.

2.4. SUY NHƯỢC SINH DỤC

            SNSD gồm có dương nuy, tảo tinh (sậu tinh), lãnh cảm. Có nhiều nguyên nhân:
-                    Do tổng trạng suy yếu: khả năng sinh hoạt tình dục giảm dần. Điều chỉnh tổng trạng.
-                    Do tâm lý: lúc mạnh lúc yếu, hoặc ân ái với người này thì tốt người kia thì không tốt. Điều trị như sau: dán cao 124, 34, 103, 106, 342, 340, 175, 107, 0 cho hàn chứng (dương nuy). Với nhiệt chứng (tảo tinh) thì day vaseline 0 + -, 124, 34, 106, 60. Tuy nhiên cũng cần điều chỉnh thêm về tổng trạng.
-                    Do bế tắc thần kinh vùng thắt lưng và xương cùng: tăng giảm thuận theo triệu chứng đau lưng, khám thấy có sinh huyệt vùng này. Giải tỏa bế tắc vùng này.

 2.5. HIẾM MUỘN

            Trước hết cần biết hiếm muộn là một bệnh không liên quan đến khả năng hoạt động tình dục. Một người có năng lực tình dục mạnh vẫn có thể vô sinh hay hiếm muộn như thường. Những nam nhân bị tảo tinh vẫn có thể gây thụ thai cho phụ nữ bình thường, những phụ nữ lãnh cãm vẫn có thể sinh nở hàng chục lần. Chúng ta có thể điều trị tương đối dễ dàng những trường hợp hiếm muộn do cơ năng như co thắt ống dẫn tinh – vòi trứng, tinh loãng, noãn sào thiểu năng, tử cung lạnh. Nếu có biến đổi thực thể như u bướu thì khó khăn hơn, nhưng vẫn có thể điều trị những trường hợp bướu mềm lành tính.
            Hầu hết nguyên nhân gây hiếm muộn là vùng hạ tiêu - sinh thực khí (vùng có cơ quan sinh dục) bị hàn khí và thấp khí nhiễm lâu ngày. Khí lạnh làm co thắt các cơ trơn cơ vòng và các mạch máu nuôi các cơ quan vùng này. Do đó chúng bị thiểu năng và sản sinh tinh trùng hoặc trứng không đủ số lượng hay chất lượng. Chưa kể sự co thắt ống dẫn tinh hay vòi trứng làm nghẽn tắc đường đi của tinh trùng và trứng. Với tử cung thì vì thiếu máu làm giảm khả năng nuôi dưỡng trứng dễ gây trụy thai sớm. (Tôi đã từng thành công một ca bệnh nhân còn trẻ dưới 30 tuổi hư thai 3 lần, bệnh viện đòi mổ và cột cổ tử cung khi có thai lần thứ tư, tôi dùng nguyên lý này làm ấm tử cung trong khoảng 2 tháng (bằng DC-ĐKLP), sau đó vì bận việc riêng, tôi tạm ngưng, kết quả là bệnh nhân sinh được một cháu trai vào tháng thứ 7, tuy sinh non nhưng vẫn khỏe mạnh và phát triển bình thường. Một năm sau khi cháu 1 tuổi tôi mới gặp lại bệnh nhân trên khi cô dẫn bạn đến nhờ tôi trị bệnh).
            Với bệnh này, không có phác đồ mà chỉ là nguyên tắc điều chỉnh tổng trạng và làm ấm tử cung, buồng trứng, vòi trứng, tinh hoàn, ống dẫn tinh. Với vòi trứng và ống dẫn tinh thì còn cần biện pháp chống co thắt (gõ phản chiếu với dầu).
            Nếu bị chèn ép do u bướu trong hay ngoài đường ống thì cần phải trị cho tiêu u bướu này (loại này không dễ). Ngoài phác đồ chính để chỉnh tổng thể thì những vùng tác động phụ gồm có phản chiếu và phóng chiếu vùng này, vùng thần kinh cột sống liên quan từ L1 đến mõm cụt.
            Nếu do bế tắc thần kinh vùng cột sống thắt lưng (đau lưng mạn tính) thì chỉ cần giải tỏa bế tắc vùng này. Tôi cũng đã thành công loại này ở nam giới sau khi nhận thấy anh này hiếm muộn không do thận suy (theo Đông y) mà do thần kinh vùng này bị thiểu năng, trường hợp này chỉ điều trị một đợt 2 tuần trước ngày rụng trứng của vợ. Ngay lần đó vợ anh ta có thai.
In bài này

Tư liệu -31- Bệnh hệ hô hấp

 Lương y Tạ Miinh

1.1 VIÊM HỌNG

            Những bệnh chứng thuộc viêm họng gồm có: viêm amidan, viêm họng hạt, viêm vòm khẩu cái, viêm thanh quản, viêm VA. Trong các bộ phận này thì VA là bộ phận có vị trí cao nhất, thanh quản có vị trí thấp nhất.
            Viêm họng luôn đau họng có thể có ho, có thể có đàm. Nghe phổi thấy bình thường.
1)                  Viêm Amidal: nói và nuốt đều đau và có cảm giác nghẹn nghẹt hai bên cổ họng. Điều trị: Tư Tiêu Viêm, 12 đến 240, 275, 14, 277.
2)                  Viêm họng hạt: nói và nuốt đều đau, nuốt đau hơn. Điều trị: Tiêu Viêm, phía sau dái tai, từ huyệt 56 đến 15, kéo dài xuống ngang khoảng 308.
3)                  Viêm vòm khẩu cái: nói đau hơn nuốt, không nghẹt, vùng giữa và trên họng (chỉ nghẹt khi viêm cấp tính và nặng). Điều trị: Tiêu Viêm và đồng ứng (da hổ khẩu bàn tay, cả hai mặt).
4)                  Viêm VA: đau vùng trên họng, chỉ tăng nhẹ khi nuốt, không nghẹt khi nuốt nhưng có thể có cảm giác nghẹt khi thở. Điều trị: Tiêu Viêm, phản chiếu VA (vùng trước huyệt 57, vùng 108 – 26).
5)                  Viêm thanh quản: đau vùng dưới họng và nghẹt khi nói lẫn nuốt nhưng nói đau hơn. Điều trị: Tiêu Viêm, phản chiếu (vùng từ 14 kéo thẳng xuống góc xương hàm dưới), đồng ứng (vùng đầu mũi).
6)                  Viêm thanh đới: Rè hoặc mất tiếng, thường sau một trận cảm. Điều trị: 127, 50, 19, 37, 1, 0 - +, Tiêu viêm, vùng từ 19 đến 173.
Có thể thêm Bổ trung trước bộ Tiêu viêm.
            Phải chẩn đoán hàn nhiệt để có kỹ thuật tương ứng. Có khi hàn nhiệt lẫn lộn thì cần trị theo hàn trước rồi nhiệt sau, cần đề phòng trường hợp viêm do nhiễm trùng. Cách nhận biết viêm do nhiễm trùng: đau, có sốt đôi khi sốt cao, chữa bằng Diện Chẩn không có hiệu quả hay hiệu quả kém và trở bệnh lại ngay sau chừng 30 phút.

1.2 Viêm mũi

            Viêm mũi khá phức tạp, có 4 nguyên nhân điển hình: viêm mũi do hàn, viêm mũi do nhiệt, viêm mũi do hàn nhiệt lẫn lộn, viêm mũi do mùi bụi (kháng nguyên). Viêm mũi thường có 2 kiểu: dạng không nghẹt và dạng có nghẹt. Tuy nhiên trên thực tế may mắn lắm ta mới gặp một bệnh nhân viêm mũi chỉ có một nguyên nhân, mà thường là do 2 nguyên nhân trở lên và kiểu viêm thì tổng hợp.
1)                  Viêm mũi do hàn: hắt hơi khi gặp yếu tố lạnh như sáng sớm, chiều tối, mưa hay gió lạnh. Có thể sổ mũi nhưng đặc điểm là nước mũi loãng như nước không nhầy nhớt. Điều trị: dán bộ Thăng, lưu dán 2 giờ.
2)                  Viêm mũi do nhiệt: triệu chứng xảy ra khi gặp yếu tố nóng (ngược lại với ở trên). Nước mũi có chất nhầy nhớt. Điều trị: day vaseline hoặc rung huyệt bộ Giáng hoặc bộ Tiêu viêm, cào hoặc lăn gai nhẹ phản chiếu mũi. Lưu ý về viêm nhiễm trùng.
3)                  Viêm mũi do hàn nhiệt lẫn lộn: hắt hơi sổ mũi khi thay đổi yếu tố nhiệt độ hoặc môi trường, nhiệt độ thời tiết. Nếu nặng có thể chỉ cần từ nơi nắng vào nơi bóng mát hoặc từ bóng mát ra nơi có nắng cũng đều hắt hơi và sổ mũi. Điều trị: chia làm 2 giai đoạn, giai đoạn đầu dùng bộ Bổ trung bằng dầu và phản chiếu mũi, giai đoạn sau day vaseline bộ Tiêu viêm và phản chiếu mũi.
4)                  Viêm mũi do kháng nguyên (do mùi hoặc bụi): hắt hơi sổ mũi khi gặp kháng nguyên. Kháng nguyên có thể là bụi đường, bụi khói xe, bụi mốc có trong vật dụng cũ, bụi trong nhà, lông thú vật, phấn hoa, mùi hóa chất. Điều trị: cũng chia làm 2 giai đoạn. Giai đoạn đầu điều trị như viêm mũi dạng hàn, giai đoạn sau dùng bộ Giáng phối hợp bộ Tiêu viêm và cào phản chiếu mũi.
Nêu trên là dạng không nghẹt.
5)                  Viêm mũi dạng nghẹt: triệu chứng chủ yếu là nghẹt mũi, có thể kèm sổ mũi. Đây là dạng khó trị nhất vì có polyp trong mũi (dân gian thường gọi là thịt dư trong mũi, Đông Y gọi là Tỵ Trĩ), vừa có tính viêm phù nề vừa viêm xung huyết, vừa mang tính dị ứng với kháng nguyên rất đa dạng, thậm chí có khi có ảnh hưởng của yếu tố thần kinh. Nếu chỉ viêm phù nề thì tương đối dễ chữa, cần Tiêu viêm Lọc thấp phản chiếu polyp bằng dầu. Viêm xung huyết thì dai dẳng hơn, cũng Tiêu viêm phản chiếu polyp nhưng không dùng dầu, kết quả rất hạn chế. Đây là dạng phức tạp nhất nên hiệu quả kém và cần luôn thay đổi phác đồ kỹ thuật đối phó với diễn biến hằng ngày.
Kiêng cữ: lạnh thì cữ lạnh, nhiệt thì cữ nóng, do kháng nguyên và có polyp thì tránh các kháng nguyên và lạnh – chua - gà - mắm - nếp - tôm cua - rau muống.
KẾT LUẬN: Trên lâm sàng ít khi gặp trường hợp điển hình như đã nêu mà thường có sự pha tạp nhau. Cần theo dõi triệu chứng mỗi ngày và biến đổi theo triệu chứng dựa vào các nguyên tắc nêu trên để đối phó triệu chứng kèm với điều trị gốc bệnh./.
PHÁC ĐỒ TỔNG QUÁT ĐIỀU TRỊ VIÊM MŨI:
            Giữa năm 2007, tôi lại nghiên cứu ra một phác đồ chữa mọi thể loại viêm mũi, hiệu quả khá cao. Nay bổ sung vào bài này để các bạn dùng: 108, 312, 1, 64, 3, 34, 129, 24, 26, 61, 37, 50, 38,156, cào tam giác Phế nhỏ, phản chiếu mũi theo Đồ hình Âm, Đồ hình Ngoại vi Vỏ Não (hai bên mang tai).

1.3. VIÊM XOANG

            Xoang là những mảnh xương vùng mặt được cấu tạo không đặc mà đầy lỗ hang, có các dây thần kinh và đặc biệt là máu ra vào rất nhiều. Xoang bị viêm khi nhiễm trùng hoặc máu ứ lại và hoại tử trong nó. DC-ĐKLP điều trị bệnh này rất tốt vì ngoài tính kháng viêm còn tính khai thông tuần hoàn huyết ở đây.
            Có hai loại xoang: xoang cạn (xoang hàm trên, xoang trán, xoang sàn trước) và xoang sâu (xoang sàn sau, xoang bướm), tổng cộng có 5 xoang. Ngoài ra trên thực tế ta thấy thỉnh thoảng có bệnh nhân bị viêm cả xương sóng mũi, tuy nhiên đây không được coi là xoang. Trên thực tế người ta hay dùng từ VIÊM XOANG MŨI. Khi viêm hai xoang trở lên thì gọi là viêm đa xoang. Đa số bệnh nhân bị viêm đa xoang.
Viêm xoang  Xoang sàn 
 Phác đồ Diện Chẩn Tạ Minh - Phóng chiếu các xoang  Phác đồ Diện Chẩn Tạ Minh - xoang sàn
1)                  Điều trị viêm xoang mãnHàn chứng thì day có dầu bộ Tiêu viêm khử ứ, 300, bộ vị phóng chiếu các vùng xoang. Nhiệt chứng: day bộ huyệt nêu trên không có dầu, lăn đinh hay lăn gai các vùng xoang.
2)                  Điều trị viêm xoang cấp: Khi viêm xoang mãn thỉnh thoảng xoang bị viêm cấp thì bệnh nhân có sốt. Cần chẩn đoán hàn nhiệt để dùng kỹ thuật thích hợp. Hàn chứng thì cần hơ nóng và xoa dầu theo phác đồ nêu trên 3 lần mỗi huyệt và vị trí các xoang; khi hết sốt thì ngưng hơ và điều trị tiếp theo viêm mãn do hàn. Nhiệt chứng thì đây là có nhiễm trùng, dùng nước đá áp lạnh hoặc lăn đinh và kết hợp với kháng sinh hoặc vạch theo 6 vùng phản chiếu bạch huyết cho nhanh. Sau khi bệnh nhân hết sốt thì ta lại điều trị theo cách trị viêm xoang mãn. Không nên hơ hay áp lạnh thêm, có thể gây hậu quả không tốt cho bệnh nhân sau này.
 
LƯU Ý: trong xoang đang bị viêm thường có mủ, các lỗ thoát ra không nhiều và rất nhỏ, khi dùng ngải cứu hơ, mủ có thể bị cô đặc lại và khô cứng, không thể thoát ra cũng như rất khó tiêu đi. Tuy cách hơ có hiệu quả cao trong các bệnh do hàn, nhưng lại không an toàn trong viêm xoang. Do đó, bạn nào đã từng chữa viêm xoang hẳn đã có lúc thất bại mà không biết do đâu. Vì bệnh nhân thường biến mất sau vài lần điều trị!!!
KIÊNG CỮ: kiêng tuyệt đối các thức ăn uống sau: các thức từ tủ lạnh, các thức chua, gà, mắm, nếp.
            Trung bình từ 3 đến 7 lần điều trị là bệnh nhân hết nhức đầu. Nhưng các xoang chưa khỏi viêm hẳn, cần điều trị tiếp cho đến hết sinh huyệt các vùng xoang. Được như vậy, bệnh nhân mới khó tái phát bệnh. Tuy nhiên cần kiêng cữ thức lạnh lâu dài vài tháng sau đó.
            Khi điều trị xong, bệnh nhân có thể ăn uống bình thường nhưng không nên lạm dụng các thức lạnh và các thức gây viêm như đã nêu trên. Vì cơ thể bệnh nhân kém chịu đựng các loại thức ăn uống này.

1.4. VIÊM PHẾ QUẢN VÀ HEN PHẾ QUẢN

            Phải nói là viêm phế-khí quản mới đầy đủ. Trên thực tế hai bộ phận này riêng biệt nhau và có lúc viêm riêng lẻ nhưng đa số hễ viêm khí quản thì kèm viêm phế quản và ngược lại.
            Ho là triệu chứng ban đầu, sau vài ngày không giảm có thể sẽ gây đau họng. Có thể có đàm hoặc không. Phổi có tiếng rít hay ran hoặc cả hai. Sốt nếu viêm cấp, không sốt trong trường hợp viêm mạn tính, nhưng khi viêm mạn thì thường dễ bị những đợt viêm cấp xen kẽ. Cần chú ý hiện tượng này để có giải pháp đúng kịp thời. Viêm phế quản mạn tính rất dễ chuyển thành hen phế quản (ngày nay người ta dùng thuật ngữ hội chứng thuyên tắc phổi, hội chứng ho-khó thở phổi, hội chứng tắc nghẽn phổi, hội chứng tắc nghẽn hô hầp phổi để chỉ tất cả triệu chứng khó thở do phổi và phế khí quản). Điều này riêng cá nhân tôi thấy rằng định nghĩa ngày xưa đúng hơn vì suyễn thì không có đàm mà hen thì bắt buộc phải có đàm dù có thể rất ít, đôi khi ít đến mức bệnh nhân không cảm thấy có đàm, nghe phổi cũng không rõ nét lắm, nhất là khi thể trạng bệnh nhân đã suy kiệt. Và trong thực tế nguyên nhân và cách điều trị hen và suyễn hoàn toàn khác nhau (nhất là điều trị bằng phương pháp Diện Chẩn) dù rằng hiện tượng bệnh đều thể hiện ở phổi, trình bày trong bài Hen Suyễn.
1)                  Viêm Phế quản: ho, thông thường là có đàm, nếu ho nhiều thì kèm đau họng. Dùng bộ Tiêu viêm, phản chiếu khí phế quản, hàn thì làm ấm nóng bằng dầu hay ngải cứu, nhiệt thì day bằng vaseline và lăn gai. Nếu đàm nhiều thì nên dán cao. Lưu dán 2 giờ mỗi ngày. Nếu viêm cấp thì có sốt. Hàn chứng thì phải dùng ngải cứu hơ – xức dầu rồi dán cao phác đồ như trên. Nhiệt chứng là có thể có nhiễm trùng, nên phối hợp với kháng sinh, về thuốc tây nên khuyên bệnh nhân theo ý kiến bác sĩ vì thuốc tây không thuộc lãnh vực của chúng ta (chúng ta không rành thuốc tây bằng bác sĩ).
Nhưng nếu bệnh nhân gầy mòn, âm hư khô khan thì có thể không thấy có đàm, thậm chí nghe phổi chỉ nghe rít chứ không có tiếng ran. Trường hợp này điều trị khó khăn vì bệnh nhân suy kiệt đã lâu. Cần vừa Bổ Âm huyết vừa day Tiêu viêm và phản chiếu khí phế quản. Kỹ thuật thì tùy nghi mà ứng biến cho phù hợp.
            Có một số trường hợp bệnh nhân chỉ ho vài cơn trong ngày, trị bằng nhiều phương thức không khỏi. Trước khi ho là ngứa họng dữ dội, ho khan một lúc lâu cho đến khi khạc ra được một ít nhớt hay một hạt đàm chừng bằng hạt gạo mới ngưng ho. Nghe phổi thấy bình thường. Đây cũng là viêm Phế Quản nhưng vùng viêm rất nhỏ mà lại sâu. Dán Tiêu viêm, dò tìm sinh huyệt vùng bị viêm. Lưu dán 2 giờ. Cữ tuyệt đối lạnh, chua, gà, mắm, nếp.
2)                  Hen phế quản: khi viêm phế quản lâu ngày mà không điều trị dứt được, bệnh có thể chuyển sang thể hen gọi là hen phế quản. Triệu chứng gồm có ho - ít hay nhiều tùy trường hợp, sau đó là nghẹt thở. Cách điều trị như viêm phế quản - vì bản chất là một - chỉ khác nhau cấp độ. Khi phế quản bớt viêm thì cũng giảm nghẹt thở.
Nêu trên là hai trường hợp còn có thể chữa được. Ngoài ra còn có các bệnh chứng cũng từ viêm phế quản mà ra nhưng rất nặng, chúng ta không trị được và ngay cả bệnh viện trị cũng rất khó khăn: dãn phế quản, tâm phế mạn. Vì ho ngộp lâu ngày gây suy tim. Nhưng nếu mới bị ảnh hưởng vào tim ta cũng có thể chữa được, chỉ cần kiên trì và khéo léo, xem thêm về Hệ Tim Mạch.

1.5. HEN SUYỄN

            Thông thường người ta hay gọi chung ngộp thở là hen suyễn. Trước đây khoảng vài chục năm – thập niên 60, y học chia làm hai loại với hai triệu chứng khác nhau khá rõ là: HEN thì vừa khó thở vừa có đàm kéo khò khè. SUYỄN thì chỉ khó thở mà không có đàm. Không hiểu vì lý do gì mà gần đây người ta lại gộp chung hen và suyễn lại thành HỘI CHỨNG TẮC NGHẼN PHẾ QUẢN PHỔI và không còn phân biệt có đàm hay không có đàm nữa. Theo nhận định riêng của tôi thì định nghĩa trước đây là đã chính xác. Vì thực tế cho thấy nếu căn cứ theo Đông y thì hen và suyễn có những triệu chứng và nguyên nhân gây bệnh khá khác nhau cũng như cách điều trị rất khác. Nổi bật nhất là nếu điều trị theo các phương pháp sữ dụng huyệt thì phương huyệt khác xa nhau (thể hiện rất rõ khi dùng DC-ĐKLP).
            Cũng theo kinh nghiệm riêng của tôi thì HEN là một tiến triển nặng của viêm phế quản mạn tính mà gốc và ngọn đều ở phổi (Phế), dĩ nhiên các tạng phủ khác có ảnh hưởng đến nhưng chỉ là gián tiếp thông qua thể trạng chung – đã trình bày trong bài Viêm Phế Quản. Còn SUYỄN là một bệnh có ngọn ở phổi nhưng gốc có thể ở xa như ở can, tâm, thận, tỳ, tiểu trường, vị……v.v.. Đặc điểm là khi lên cơn khó thở không có đàm (nghe phổi chỉ có tiếng rít thuần túy), lên cơn thường có quy luật và kèm với một triệu chứng thuộc nội tạng khác. Chẩn đoán và điều trị SUYỄN thì hoàn toàn theo biện chứng Đông y. Trong khi HEN phế quản thì lại chẩn đoán và điều trị theo biện chứng Tây y. Đây là một điều rất thú vị với tôi khi nghiên cứu và tìm ra giải pháp chẩn trị hai bệnh chứng giống mà khác nhau này. Ở đây chỉ đề cập đến Suyễn còn Hen được gộp với bài Viêm Phế Quản ở trên.
 
 1.6. SUYỄN
            Suyễn theo Tây y là một bệnh thuộc loại dị ứng có nguyên nhân là sức đề kháng kém, theo Đông y là do chính khí hư. Thực chất là cùng ý. Với Tây y thì điều trị triệu chứng là chủ yếu.
            Tuy nhiên Đông y lại chữa trị tốt hơn vì cái nhìn về tổng thể bao quát hơn. Trong đó khái niệm về Âm Dương là đặc sắc riêng. Vì vậy bài này chỉ trình bày phương hướng điều trị bệnh này theo Đông y mà thôi.
            Theo Đông y tạm chia suyễn ra làm 4 thể: thực nhiệt, thực hàn, hư nhiệt, hư hàn. Tuy nhiên bản chất của suyễn luôn thuộc hư. Sở dĩ có chứng thực vì gặp yếu tố bất lợi cho cơ thể, tương tự như Tây y nhận xét là trên nền bệnh mạn tính có những đợt cấp tính.
-                    Thực nhiệt: triệu chứng dữ dội, bệnh tăng khi gặp yếu tố nóng. Yếu tố thuộc nóng như thời tiết nóng, độ ẩm thấp (hanh khô), món ăn nóng (nhiều năng lượng) như chocolate, các loại trái cây có vị ngọt đậm. Điều trị: tả nhiệt mạnh bằng bộ Giáng, phản chiếu hệ hô hấp, về kỹ thuật thì tùy mức độ bệnh tùy thể trạng bệnh nhân mà chọn cho thích hợp. Kiêng cữ: các yếu tố nóng.
-                    Thực hàn: triệu chứng dữ dội, bệnh tăng khi gặp yếu tố lạnh. Yếu tố lạnh như thời tiết lạnh, độ ẩm cao (ẩm ướt), món ăn ít nhiệt lượng như các loại rau, quả không ngọt lại nhiều nước như các loại dưa… Điều trị: tả hàn mạnh bằng bộ Thăng, phản chiếu hệ hô hấp. Về kỹ thuật thì tùy chọn cho thích hợp. Kiêng cữ: các yếu tố lạnh, các yếu tố ẩm ướt.
-                    Hư nhiệt: triệu chứng nhẹ nhàng, bệnh tăng khi gặp yếu tố nóng, yếu tố gây mất sức. Điều trị: lương bổ tạng phủ gốc bệnh bằng bộ Bổ Âm huyết nếu huyết hư, bằng bộ Bổ trung nếu khí hư. Nếu cần thì thêm phản chiếu hệ hô hấp. Kỹ thuật tùy chọn. Kiêng cữ các yếu tố gây tăng bệnh.
-                    Hư hàn: triệu chứng nhẹ nhàng, bệnh tăng khi gặp yếu tố lạnh, khi gặp yếu tố gây mất sức. Ôn bổ tạng phủ gốc bệnh bằng bộ Bổ Âm huyết nếu huyết hư, bằng bộ Bổ trung nếu khí hư. Nếu cần thì thêm phản chiếu hệ hô hấp. Kỹ thuật tùy chọn. Kiêng cữ các yếu tố gây tăng bệnh.
Cách phân định này dùng trong việc cắt cơn suyễn đang lên cao. Điều trị lâu dài thì khác.
            Cách phân loại này chỉ áp dụng cho bệnh lý gây ra do ảnh hưởng của tổng thể lên hệ hô hấp (sức đề kháng kém - theo Tây y) chứ không do một tạng phủ nào bị lệch lạc gây ra. Do đó trên lâm sàng ta ít gặp suyễn thực, nếu gặp cũng chữa khá dễ dàng vì thường là bệnh mới phát hoặc phát đã lâu nhưng tổng trạng bệnh nhân chưa hư. Chỉ khi chữa không được, để lâu ngày tổng trạng bị suy yếu thì bệnh chuyển sang thể hư và khó chữa hơn. Rất khó khi thể trạng suy nặng. Bốn thể bệnh này không có quy luật theo giờ giấc trong ngày, mùa trong năm hay theo món ăn riêng biệt mà chỉ theo quy luật nóng và lạnh hay mất sức mà thôi.
            Nếu do các tạng phủ bị lệch lạc gây ra thì ta lại có các yếu tố liên quan đến tạng tượng hay chu kỳ kinh khí. Phân biệt thực và hư bằng triệu chứng bệnh của ngũ tạng, ngũ hành chính vị và xung khắc. Tuy nhiên cần lưu ý về khía cạnh âm dương, khí huyết.
THÍ DỤ:
-                    Lên cơn khi gặp gió, khi tức giận, khi ăn vị chua – vị cay (Can hợp với Tỳ gây bệnh), vào mùa Xuân, mùa Thu, vào giờ Sữu, giờ Mùi…v.v.. Là liên quan đến Can.
-                    Lên cơn khi gặp nóng hay lạnh, khi vui mừng, khi ăn vị khét - vị mặn (Tâm Tỳ hợp bệnh), vào mùa Hạ, mùa Đông, vào giờ Ngọ, giờ Tý. Là liên quan đến Tâm.
-                    Lên cơn khi gặp ẩm ướt hay khô hanh, khi lo nghĩ, sau khi ăn xong, vào mùa Trưởng hạ hay vào mùa mưa, vào mùa Xuân, vào giờ Tỵ, giờ Hợi…v.v.. Là thuộc Tỳ.
-                    Lên cơn khi gặp mùi lạ, khi buồn rầu, khi ăn vị cay – vị khét (Phế Tỳ hợp bệnh), vào mùa Thu, mùa Hạ, vào giờ Dần, giờ Thân. Là liên quan tới Phế.
Ở đây tôi chỉ đề cập đến các tạng, còn phủ thì sao ? Với phủ thì cũng tương tự như vậy chỉ khác giờ lên cơn mà thôi. Như với các triệu chứng của Can Mộc nhưng giờ lên cơn là giờ Tý – Ngọ thì ta phải nghĩ đến phủ Đởm chứ không phải tạng Can. Nhưng đừng quên Can Đởm là biểu lý. Tương tự cho các phủ khác.
            Vậy, đối với bệnh suyễn ta cần phân biệt hàn nhiệt hư thực và tạng phủ nào bị trục trặc để điều chỉnh lại cho cân bằng dựa theo nguyên tắc HƯ THÌ BỔ, THỰC THÌ TẢ. Bệnh hàn thì dùng ôn, bệnh nhiệt thì dùng lương. Và như vậy không thể có phác đồ đặc hiệu cho bệnh Suyễn mà chỉ có phương án điều trị cho bệnh Suyễn mà thôi, vì cơ thể bệnh nhân và căn nguyên bệnh không ai giống ai.
            Thí dụ:
1)                  Bệnh thuộc Can khi bệnh nhân lên cơn mỗi khi tức giận, hoặc ăn chất chua hoặc khi trời trở gió nhiều. Thường lên cơn giờ Sửu (Can thực) hoặc giờ Mùi (Can hư).
2)                  Bệnh thuộc Thận khi trời lạnh hoặc khi sợ hãi hoặc ăn mặn và thường lên cơn giờ Dậu (thực) hay giờ Mão (hư).
Tương tự cho các tạng phủ khác. Vì thế không có phác đồ mà chỉ có nguyên tắc điều trị: dựa theo triệu chứng của Đông y mà chẩn đoán tạng phủ gốc bị bệnh hư hay thực, điều chỉnh tạng phủ đó là chính, phế là phụ.
            Bổ khí cho tạng phủ: 127, 7 - +, 50, 19, 37, 1, 0 - +. Nếu muốn bổ Dương thì làm ấm các huyệt.
            Tả khí cho tạng phủ: 124 + -, 34 + -, 106, 26, 61 + -, 156 + -.
            Bổ Âm bổ Huyết cho tạng phủ thì dùng Bổ Âm Huyết, chỉ thay đổi kỹ thuật cho thích hợp.
            Thí dụ: Nếu do Can thực thì tả Can: 124, 34, 106, 26, 61, 156, 50. Nếu do Can khí hư thì bổ Can khí: 127, 7 - +, 50, 19, 39, 37, 1, 0 - +, 41, 233, 50. Nếu do Can huyết hư thì dùng bộ Bổ Âm huyết, 50, 70.
            Tương tự cho các tạng phủ khác./.
In bài này

Tư liệu -30- Các Bệnh Thường Gặp

            Các bài viết sau đây giới thiệu cùng các bạn cách thức nhận diện và giải quyết một số bệnh thường gặp mà tôi đã thành công tương đối là chắc tay. Giá trị của phác đồ tương đối ổn định. Trong môn phái DC-ĐKLP có thể có nhiều phác đồ gọn hơn, hay hơn nhưng bắt buộc các bạn phải nhớ nhiều phác đồ cho một bệnh và phải mò mẫm tìm phác đồ thích hợp. Đó là điều hóa ra là khó chứ không phải dễ. Ở đây, tôi xây dựng kiểu điều trị theo cơ chế bệnh, mới đầu có vẻ khó nhưng khi quen thì lại rất dễ vì chỉ cần thuộc các phác đồ điều chỉnh theo cơ chế như bổ âm dương khí huyết, tiêu viêm, trừ thấp……v.v.. sau đó là phản chiếu hay đồng ứng là xong.

            Các bệnh được phân loại theo các hệ thống bệnh của Tây y. Về bệnh danh (tên bệnh) đa số cũng được dùng theo Tây y. Điều này giúp cho các bạn có thể áp dụng được khi biết tên của chứng bệnh mình đang can thiệp. Việc còn lại là cần chẩn đoán hàn - nhiệt (lạnh – nóng) cho đúng nữa là xong.
            Chúc các bạn thành công. Mọi thắc mắc nếu có, hãy liên lạc về:
Lương y Tạ Minh.
Mobile (ĐTDĐ): 091.8388.718.
E-mail: This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it., This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it..
Blog: taminhdc.blogspot.com
 

CÁCH CHẨN ĐOÁN BỆNH DO LẠNH HAY DO NÓNG GÂY RA

-                    Bệnh do lạnh: đau tăng về đêm hay sáng sớm, trời trở lạnh, vào phòng lạnh, trời mưa hoặc ăn uống đồ lạnh đồ ít nhiệt lượng vào chừng 30 phút sau thì đau tăng. Tôi gọi là CÁC YẾU TỐ LẠNH.
-                    Bệnh do nóng: đau tăng vào buổi trưa, trời trở nóng, nắng gắt, đến gần lửa hoặc ăn uống đồ cay nóng nhiều nhiệt lượng chừng 30 phút sau thì đau tăng. Tôi gọi là CÁC YẾU TỐ NÓNG.
CÁCH ĐIỀU TRỊ
            Sử dụng các công thức điều trị bệnh theo một trong hai cách dưới đây sau khi biết bệnh do lạnh hay do nóng gây ra.
-                    Bệnh do lạnh: nếu bệnh nặng (lạnh nhiều) thì hơ xức dầu, bệnh vừa vừa hoặc nhẹ các bạn dùng dầu day vào huyệt hoặc quẹt hoặc cào các phản chiếu. Trường hợp bệnh do nhiễm ẩm thấp, bạn dùng salonpas cắt nhỏ và dán lên huyệt hoặc vùng phản chiếu, để như vậy trong 2 - 4 tiếng đồng hồ.
-                    Bệnh do nóng: nếu bệnh nặng (nóng nhiều) dùng nước đá áp vào các huyệt 2 phút mỗi huyệt rồi đổi sang huyệt khác theo thứ tự trong công thức. Nếu bệnh vừa vừa, bạn dùng que dò lăn gai hay lăn đinh. Nếu bệnh nhẹ, bạn dùng cách rung huyệt, day ấn bằng que dò hoặc cào với vaseline.
In bài này

Tư liệu -29- Ôn Lý Giải Biểu

·                     PHÁC ĐỒ: 108, 8, 3 + -, 17 - +, 156, 22, 143.

Phác đồ Diện chẩn Tạ Minh - Ôn lý giải biểu

·                     KỸ THUẬT: hơ và xức dầu.

·                     TÁC DỤNG: làm ấm bên trong sâu (Lý), đưa hàn khí ra ngoài (Biểu) và làm tan hàn khí.

Nên dùng trong những trường hợp nhiễm lạnh vào sâu bên trong, bộ Thăng không có tác dụng. Những chứng cảm lạnh lâu ngày không khỏi, các Đông-y-sỹ đã kết luận “phong hàn nhập lý”, “cảm nhập lý” – nói như vậy để phân biệt trường hợp cảm lâu ngày do suy nhược. Những trường hợp nhiễm lạnh sâu lâu ngày gây đau nhức toàn thân mà các loại phương thang Bắc Nam không điều trị được vì kinh lạc bị khí lạnh làm bế tắc, phải uống thuốc giảm đau liên tục (thuốc Tây) – đây là bệnh thường gặp trên các bệnh nhân nông ngư nghiệp, có thời gian sống lâu ở miền Bắc nước ta.

Tạ Minh,TP.HCM. 15-02-2007.

In bài này

Tư liệu -27- Bộ Bổ Âm Huyết

Tạ Minh.
 
            Âm huyết kém là nguyên nhân của rất nhiều bệnh chứng. Việc chẩn đoán âm huyết kém không khó. Khó là bồi bổ cho đạt yêu cầu. Có những trường hợp bịnh nhân đã uống thuốc bổ Đông dược hoặc Tây dược hằng mấy tháng vẫn không hề chuyển biến! Thật là khó hiểu và bất hợp lý. Trên lâm sàng không ít lần chúng ta bế tắc khi gặp trường hợp này. Bệnh vì âm huyết suy mà không bổ được thì không thể trị dứt bệnh mà chỉ làm giảm chứng. Thế thì cứ phải gặp nhau hoài, làm bịnh nhân nản lòng mà thầy thuốc nản hơn, đôi khi càng trị theo chứng lại càng làm âm huyết suy thêm. Cho nên khi xây dựng được bộ huyệt BỔ ÂM HUYẾT này, tôi vô cùng mừng rỡ vì qua thực tế sử dụng thấy kết quả rất tốt ngoài ý muốn ban đầu. Xin trình bày để chúng ta cùng dùng, giúp cho bịnh nhân.
I/-        PHÁC ĐỒ
            22, 127, 63M + -, 17 + -, 113 + -, 7 + -, 63, 50, 19, 39, 37, 1, 290 + -, 0 + -.   
            Không phải lúc nào cũng sử dụng hết các huyệt trên, mà chỉ dùng những huyệt có báo bệnh.
Phác đồ Diện Chẩn Tạ Minh - Bộ Bổ Âm Huyết Phác đồ Diện Chẩn Tạ Minh - Bộ Bổ Âm Huyết
Phác đồ Diện Chẩn Tạ Minh - Bộ Bổ Âm Huyết Phác Đồ Diện Chẩn Tạ Minh - Bộ Bổ Âm Huyết
II/-       KỸ THUẬT
            Trên lâm sàng thường có hai thể khác nhau: hàn và nhiệt.
-                    Hàn chứng thì người mát cho tới lạnh, cảm giác tương đối sợ lạnh hơn sợ nóng.
-                    Nhiệt chứng thì người ấm đến nóng, cảm giác tương đối sợ nóng hơn sợ lạnh.
Khi âm huyết kém thì nóng lạnh đều sợ. Thiên hạ chưa nóng mình đã nóng, chưa lạnh thì mình đã lạnh nên tôi dùng chữ tương đối.
1)                  Hàn chứng: ngải cứu hơ mỗi huyệt nóng một lần không xoa dầu, theo thứ tự trên. Nếu BN không bị hàn rõ rệt thì chỉ cần day có một ít dầu cao. LƯU Ý: đã day dầu thì không hơ, đã hơ thì không chấm dầu vì sẽ gây quá liều.
2)                  Nhiệt chứng: dùng que dò chấm vaseline day mỗi huyệt 30 cái nhè nhẹ theo thứ tự như trên (không cần day mạnh cho thật đau - vaseline ở đây chỉ nhằm bôi trơn chứ không có tác dụng gì).
III/-     TÁC DỤNG VÀ CHỦ TRỊ
            Qua thực tế áp dụng từ năm 1991 đến nay, tôi nhận thấy bộ huyệt này có các tác dụng như sau:
-                    Giúp biết đói khi tới giờ ăn, ăn ngon miệng, tiêu hóa tốt, hấp thu tốt, biến dưỡng tốt.
-                    Sinh tân dịch, sinh cơ nhục, tạo hồng cầu.
-                    Điều hòa thành phần máu.
Qua đó, nó trị được các bệnh do huyết hư suy, thiếu tân dịch như: suy nhược cơ thể do ăn kém hoặc ăn tốt nhưng không hấp thu nên vẫn gầy kể cả các trường hợp đã uống nhiều thuốc bổ Đông Tây y; thiếu hồng cầu; thiếu huyết sắc tố trong máu, thiếu huyết tương; tiểu đường; cholesteron trong máu cao; giai đoạn đầu của các bệnh thuộc về sự thoái hóa (như thoái hóa võng mạc, thoái hóa thần kinh thị giác…); táo bón kinh niên dạng âm hư (phân dê)…
IV/-     ỨNG BIẾN LÂM SÀNG
-                    Thông thường, chỉ sau ba lần điều trị là bịnh nhân đã bắt đầu chuyển biến như thấy đói bụng, ăn ngon miệng hơn… nhưng kết quả cuối cùng lên cân thì không nhanh được mà phải có thời gian.
-                    Nếu sau ba lần dùng bộ huyệt này mà không thấy hiệu ứng gì thì thường do cơ thể ứ đọng thủy thấp quá nhiều, cần trừ thấp trước rồi bổ âm huyết sau (xem bài “Trừ đàm thấp thủy bằng DC-ĐKLP”).
-                    Trong bệnh tiểu đường và cholesteron trong máu cao ta cần thêm huyệt 347.
-                    Nếu thiếu hồng cầu hoặc huyết sắc tố ta phải dùng trọn tam giác Tỳ 37, 40, 481.
V/-       KẾT LUẬN
            Bộ BỔ ÂM HUYẾT này hiệu quả rất tốt trong nhiệm vụ bồi bổ cơ thể đơn thuần. Riêng khi dùng để chữa bệnh thì cần kết hợp linh động với các phác đồ khác một cách khéo léo mới mong đạt hiệu quả cao. Tuy nhiên với bịnh nhân trên 70 tuổi thì vấn đề khó khăn hơn.
TP. Hồ Chí Minh, 1-1-1999.