In bài này

Tư liệu -31- Bệnh hệ hô hấp

 Lương y Tạ Miinh

1.1 VIÊM HỌNG

            Những bệnh chứng thuộc viêm họng gồm có: viêm amidan, viêm họng hạt, viêm vòm khẩu cái, viêm thanh quản, viêm VA. Trong các bộ phận này thì VA là bộ phận có vị trí cao nhất, thanh quản có vị trí thấp nhất.
            Viêm họng luôn đau họng có thể có ho, có thể có đàm. Nghe phổi thấy bình thường.
1)                  Viêm Amidal: nói và nuốt đều đau và có cảm giác nghẹn nghẹt hai bên cổ họng. Điều trị: Tư Tiêu Viêm, 12 đến 240, 275, 14, 277.
2)                  Viêm họng hạt: nói và nuốt đều đau, nuốt đau hơn. Điều trị: Tiêu Viêm, phía sau dái tai, từ huyệt 56 đến 15, kéo dài xuống ngang khoảng 308.
3)                  Viêm vòm khẩu cái: nói đau hơn nuốt, không nghẹt, vùng giữa và trên họng (chỉ nghẹt khi viêm cấp tính và nặng). Điều trị: Tiêu Viêm và đồng ứng (da hổ khẩu bàn tay, cả hai mặt).
4)                  Viêm VA: đau vùng trên họng, chỉ tăng nhẹ khi nuốt, không nghẹt khi nuốt nhưng có thể có cảm giác nghẹt khi thở. Điều trị: Tiêu Viêm, phản chiếu VA (vùng trước huyệt 57, vùng 108 – 26).
5)                  Viêm thanh quản: đau vùng dưới họng và nghẹt khi nói lẫn nuốt nhưng nói đau hơn. Điều trị: Tiêu Viêm, phản chiếu (vùng từ 14 kéo thẳng xuống góc xương hàm dưới), đồng ứng (vùng đầu mũi).
6)                  Viêm thanh đới: Rè hoặc mất tiếng, thường sau một trận cảm. Điều trị: 127, 50, 19, 37, 1, 0 - +, Tiêu viêm, vùng từ 19 đến 173.
Có thể thêm Bổ trung trước bộ Tiêu viêm.
            Phải chẩn đoán hàn nhiệt để có kỹ thuật tương ứng. Có khi hàn nhiệt lẫn lộn thì cần trị theo hàn trước rồi nhiệt sau, cần đề phòng trường hợp viêm do nhiễm trùng. Cách nhận biết viêm do nhiễm trùng: đau, có sốt đôi khi sốt cao, chữa bằng Diện Chẩn không có hiệu quả hay hiệu quả kém và trở bệnh lại ngay sau chừng 30 phút.

1.2 Viêm mũi

            Viêm mũi khá phức tạp, có 4 nguyên nhân điển hình: viêm mũi do hàn, viêm mũi do nhiệt, viêm mũi do hàn nhiệt lẫn lộn, viêm mũi do mùi bụi (kháng nguyên). Viêm mũi thường có 2 kiểu: dạng không nghẹt và dạng có nghẹt. Tuy nhiên trên thực tế may mắn lắm ta mới gặp một bệnh nhân viêm mũi chỉ có một nguyên nhân, mà thường là do 2 nguyên nhân trở lên và kiểu viêm thì tổng hợp.
1)                  Viêm mũi do hàn: hắt hơi khi gặp yếu tố lạnh như sáng sớm, chiều tối, mưa hay gió lạnh. Có thể sổ mũi nhưng đặc điểm là nước mũi loãng như nước không nhầy nhớt. Điều trị: dán bộ Thăng, lưu dán 2 giờ.
2)                  Viêm mũi do nhiệt: triệu chứng xảy ra khi gặp yếu tố nóng (ngược lại với ở trên). Nước mũi có chất nhầy nhớt. Điều trị: day vaseline hoặc rung huyệt bộ Giáng hoặc bộ Tiêu viêm, cào hoặc lăn gai nhẹ phản chiếu mũi. Lưu ý về viêm nhiễm trùng.
3)                  Viêm mũi do hàn nhiệt lẫn lộn: hắt hơi sổ mũi khi thay đổi yếu tố nhiệt độ hoặc môi trường, nhiệt độ thời tiết. Nếu nặng có thể chỉ cần từ nơi nắng vào nơi bóng mát hoặc từ bóng mát ra nơi có nắng cũng đều hắt hơi và sổ mũi. Điều trị: chia làm 2 giai đoạn, giai đoạn đầu dùng bộ Bổ trung bằng dầu và phản chiếu mũi, giai đoạn sau day vaseline bộ Tiêu viêm và phản chiếu mũi.
4)                  Viêm mũi do kháng nguyên (do mùi hoặc bụi): hắt hơi sổ mũi khi gặp kháng nguyên. Kháng nguyên có thể là bụi đường, bụi khói xe, bụi mốc có trong vật dụng cũ, bụi trong nhà, lông thú vật, phấn hoa, mùi hóa chất. Điều trị: cũng chia làm 2 giai đoạn. Giai đoạn đầu điều trị như viêm mũi dạng hàn, giai đoạn sau dùng bộ Giáng phối hợp bộ Tiêu viêm và cào phản chiếu mũi.
Nêu trên là dạng không nghẹt.
5)                  Viêm mũi dạng nghẹt: triệu chứng chủ yếu là nghẹt mũi, có thể kèm sổ mũi. Đây là dạng khó trị nhất vì có polyp trong mũi (dân gian thường gọi là thịt dư trong mũi, Đông Y gọi là Tỵ Trĩ), vừa có tính viêm phù nề vừa viêm xung huyết, vừa mang tính dị ứng với kháng nguyên rất đa dạng, thậm chí có khi có ảnh hưởng của yếu tố thần kinh. Nếu chỉ viêm phù nề thì tương đối dễ chữa, cần Tiêu viêm Lọc thấp phản chiếu polyp bằng dầu. Viêm xung huyết thì dai dẳng hơn, cũng Tiêu viêm phản chiếu polyp nhưng không dùng dầu, kết quả rất hạn chế. Đây là dạng phức tạp nhất nên hiệu quả kém và cần luôn thay đổi phác đồ kỹ thuật đối phó với diễn biến hằng ngày.
Kiêng cữ: lạnh thì cữ lạnh, nhiệt thì cữ nóng, do kháng nguyên và có polyp thì tránh các kháng nguyên và lạnh – chua - gà - mắm - nếp - tôm cua - rau muống.
KẾT LUẬN: Trên lâm sàng ít khi gặp trường hợp điển hình như đã nêu mà thường có sự pha tạp nhau. Cần theo dõi triệu chứng mỗi ngày và biến đổi theo triệu chứng dựa vào các nguyên tắc nêu trên để đối phó triệu chứng kèm với điều trị gốc bệnh./.
PHÁC ĐỒ TỔNG QUÁT ĐIỀU TRỊ VIÊM MŨI:
            Giữa năm 2007, tôi lại nghiên cứu ra một phác đồ chữa mọi thể loại viêm mũi, hiệu quả khá cao. Nay bổ sung vào bài này để các bạn dùng: 108, 312, 1, 64, 3, 34, 129, 24, 26, 61, 37, 50, 38,156, cào tam giác Phế nhỏ, phản chiếu mũi theo Đồ hình Âm, Đồ hình Ngoại vi Vỏ Não (hai bên mang tai).

1.3. VIÊM XOANG

            Xoang là những mảnh xương vùng mặt được cấu tạo không đặc mà đầy lỗ hang, có các dây thần kinh và đặc biệt là máu ra vào rất nhiều. Xoang bị viêm khi nhiễm trùng hoặc máu ứ lại và hoại tử trong nó. DC-ĐKLP điều trị bệnh này rất tốt vì ngoài tính kháng viêm còn tính khai thông tuần hoàn huyết ở đây.
            Có hai loại xoang: xoang cạn (xoang hàm trên, xoang trán, xoang sàn trước) và xoang sâu (xoang sàn sau, xoang bướm), tổng cộng có 5 xoang. Ngoài ra trên thực tế ta thấy thỉnh thoảng có bệnh nhân bị viêm cả xương sóng mũi, tuy nhiên đây không được coi là xoang. Trên thực tế người ta hay dùng từ VIÊM XOANG MŨI. Khi viêm hai xoang trở lên thì gọi là viêm đa xoang. Đa số bệnh nhân bị viêm đa xoang.
Viêm xoang  Xoang sàn 
 Phác đồ Diện Chẩn Tạ Minh - Phóng chiếu các xoang  Phác đồ Diện Chẩn Tạ Minh - xoang sàn
1)                  Điều trị viêm xoang mãnHàn chứng thì day có dầu bộ Tiêu viêm khử ứ, 300, bộ vị phóng chiếu các vùng xoang. Nhiệt chứng: day bộ huyệt nêu trên không có dầu, lăn đinh hay lăn gai các vùng xoang.
2)                  Điều trị viêm xoang cấp: Khi viêm xoang mãn thỉnh thoảng xoang bị viêm cấp thì bệnh nhân có sốt. Cần chẩn đoán hàn nhiệt để dùng kỹ thuật thích hợp. Hàn chứng thì cần hơ nóng và xoa dầu theo phác đồ nêu trên 3 lần mỗi huyệt và vị trí các xoang; khi hết sốt thì ngưng hơ và điều trị tiếp theo viêm mãn do hàn. Nhiệt chứng thì đây là có nhiễm trùng, dùng nước đá áp lạnh hoặc lăn đinh và kết hợp với kháng sinh hoặc vạch theo 6 vùng phản chiếu bạch huyết cho nhanh. Sau khi bệnh nhân hết sốt thì ta lại điều trị theo cách trị viêm xoang mãn. Không nên hơ hay áp lạnh thêm, có thể gây hậu quả không tốt cho bệnh nhân sau này.
 
LƯU Ý: trong xoang đang bị viêm thường có mủ, các lỗ thoát ra không nhiều và rất nhỏ, khi dùng ngải cứu hơ, mủ có thể bị cô đặc lại và khô cứng, không thể thoát ra cũng như rất khó tiêu đi. Tuy cách hơ có hiệu quả cao trong các bệnh do hàn, nhưng lại không an toàn trong viêm xoang. Do đó, bạn nào đã từng chữa viêm xoang hẳn đã có lúc thất bại mà không biết do đâu. Vì bệnh nhân thường biến mất sau vài lần điều trị!!!
KIÊNG CỮ: kiêng tuyệt đối các thức ăn uống sau: các thức từ tủ lạnh, các thức chua, gà, mắm, nếp.
            Trung bình từ 3 đến 7 lần điều trị là bệnh nhân hết nhức đầu. Nhưng các xoang chưa khỏi viêm hẳn, cần điều trị tiếp cho đến hết sinh huyệt các vùng xoang. Được như vậy, bệnh nhân mới khó tái phát bệnh. Tuy nhiên cần kiêng cữ thức lạnh lâu dài vài tháng sau đó.
            Khi điều trị xong, bệnh nhân có thể ăn uống bình thường nhưng không nên lạm dụng các thức lạnh và các thức gây viêm như đã nêu trên. Vì cơ thể bệnh nhân kém chịu đựng các loại thức ăn uống này.

1.4. VIÊM PHẾ QUẢN VÀ HEN PHẾ QUẢN

            Phải nói là viêm phế-khí quản mới đầy đủ. Trên thực tế hai bộ phận này riêng biệt nhau và có lúc viêm riêng lẻ nhưng đa số hễ viêm khí quản thì kèm viêm phế quản và ngược lại.
            Ho là triệu chứng ban đầu, sau vài ngày không giảm có thể sẽ gây đau họng. Có thể có đàm hoặc không. Phổi có tiếng rít hay ran hoặc cả hai. Sốt nếu viêm cấp, không sốt trong trường hợp viêm mạn tính, nhưng khi viêm mạn thì thường dễ bị những đợt viêm cấp xen kẽ. Cần chú ý hiện tượng này để có giải pháp đúng kịp thời. Viêm phế quản mạn tính rất dễ chuyển thành hen phế quản (ngày nay người ta dùng thuật ngữ hội chứng thuyên tắc phổi, hội chứng ho-khó thở phổi, hội chứng tắc nghẽn phổi, hội chứng tắc nghẽn hô hầp phổi để chỉ tất cả triệu chứng khó thở do phổi và phế khí quản). Điều này riêng cá nhân tôi thấy rằng định nghĩa ngày xưa đúng hơn vì suyễn thì không có đàm mà hen thì bắt buộc phải có đàm dù có thể rất ít, đôi khi ít đến mức bệnh nhân không cảm thấy có đàm, nghe phổi cũng không rõ nét lắm, nhất là khi thể trạng bệnh nhân đã suy kiệt. Và trong thực tế nguyên nhân và cách điều trị hen và suyễn hoàn toàn khác nhau (nhất là điều trị bằng phương pháp Diện Chẩn) dù rằng hiện tượng bệnh đều thể hiện ở phổi, trình bày trong bài Hen Suyễn.
1)                  Viêm Phế quản: ho, thông thường là có đàm, nếu ho nhiều thì kèm đau họng. Dùng bộ Tiêu viêm, phản chiếu khí phế quản, hàn thì làm ấm nóng bằng dầu hay ngải cứu, nhiệt thì day bằng vaseline và lăn gai. Nếu đàm nhiều thì nên dán cao. Lưu dán 2 giờ mỗi ngày. Nếu viêm cấp thì có sốt. Hàn chứng thì phải dùng ngải cứu hơ – xức dầu rồi dán cao phác đồ như trên. Nhiệt chứng là có thể có nhiễm trùng, nên phối hợp với kháng sinh, về thuốc tây nên khuyên bệnh nhân theo ý kiến bác sĩ vì thuốc tây không thuộc lãnh vực của chúng ta (chúng ta không rành thuốc tây bằng bác sĩ).
Nhưng nếu bệnh nhân gầy mòn, âm hư khô khan thì có thể không thấy có đàm, thậm chí nghe phổi chỉ nghe rít chứ không có tiếng ran. Trường hợp này điều trị khó khăn vì bệnh nhân suy kiệt đã lâu. Cần vừa Bổ Âm huyết vừa day Tiêu viêm và phản chiếu khí phế quản. Kỹ thuật thì tùy nghi mà ứng biến cho phù hợp.
            Có một số trường hợp bệnh nhân chỉ ho vài cơn trong ngày, trị bằng nhiều phương thức không khỏi. Trước khi ho là ngứa họng dữ dội, ho khan một lúc lâu cho đến khi khạc ra được một ít nhớt hay một hạt đàm chừng bằng hạt gạo mới ngưng ho. Nghe phổi thấy bình thường. Đây cũng là viêm Phế Quản nhưng vùng viêm rất nhỏ mà lại sâu. Dán Tiêu viêm, dò tìm sinh huyệt vùng bị viêm. Lưu dán 2 giờ. Cữ tuyệt đối lạnh, chua, gà, mắm, nếp.
2)                  Hen phế quản: khi viêm phế quản lâu ngày mà không điều trị dứt được, bệnh có thể chuyển sang thể hen gọi là hen phế quản. Triệu chứng gồm có ho - ít hay nhiều tùy trường hợp, sau đó là nghẹt thở. Cách điều trị như viêm phế quản - vì bản chất là một - chỉ khác nhau cấp độ. Khi phế quản bớt viêm thì cũng giảm nghẹt thở.
Nêu trên là hai trường hợp còn có thể chữa được. Ngoài ra còn có các bệnh chứng cũng từ viêm phế quản mà ra nhưng rất nặng, chúng ta không trị được và ngay cả bệnh viện trị cũng rất khó khăn: dãn phế quản, tâm phế mạn. Vì ho ngộp lâu ngày gây suy tim. Nhưng nếu mới bị ảnh hưởng vào tim ta cũng có thể chữa được, chỉ cần kiên trì và khéo léo, xem thêm về Hệ Tim Mạch.

1.5. HEN SUYỄN

            Thông thường người ta hay gọi chung ngộp thở là hen suyễn. Trước đây khoảng vài chục năm – thập niên 60, y học chia làm hai loại với hai triệu chứng khác nhau khá rõ là: HEN thì vừa khó thở vừa có đàm kéo khò khè. SUYỄN thì chỉ khó thở mà không có đàm. Không hiểu vì lý do gì mà gần đây người ta lại gộp chung hen và suyễn lại thành HỘI CHỨNG TẮC NGHẼN PHẾ QUẢN PHỔI và không còn phân biệt có đàm hay không có đàm nữa. Theo nhận định riêng của tôi thì định nghĩa trước đây là đã chính xác. Vì thực tế cho thấy nếu căn cứ theo Đông y thì hen và suyễn có những triệu chứng và nguyên nhân gây bệnh khá khác nhau cũng như cách điều trị rất khác. Nổi bật nhất là nếu điều trị theo các phương pháp sữ dụng huyệt thì phương huyệt khác xa nhau (thể hiện rất rõ khi dùng DC-ĐKLP).
            Cũng theo kinh nghiệm riêng của tôi thì HEN là một tiến triển nặng của viêm phế quản mạn tính mà gốc và ngọn đều ở phổi (Phế), dĩ nhiên các tạng phủ khác có ảnh hưởng đến nhưng chỉ là gián tiếp thông qua thể trạng chung – đã trình bày trong bài Viêm Phế Quản. Còn SUYỄN là một bệnh có ngọn ở phổi nhưng gốc có thể ở xa như ở can, tâm, thận, tỳ, tiểu trường, vị……v.v.. Đặc điểm là khi lên cơn khó thở không có đàm (nghe phổi chỉ có tiếng rít thuần túy), lên cơn thường có quy luật và kèm với một triệu chứng thuộc nội tạng khác. Chẩn đoán và điều trị SUYỄN thì hoàn toàn theo biện chứng Đông y. Trong khi HEN phế quản thì lại chẩn đoán và điều trị theo biện chứng Tây y. Đây là một điều rất thú vị với tôi khi nghiên cứu và tìm ra giải pháp chẩn trị hai bệnh chứng giống mà khác nhau này. Ở đây chỉ đề cập đến Suyễn còn Hen được gộp với bài Viêm Phế Quản ở trên.
 
 1.6. SUYỄN
            Suyễn theo Tây y là một bệnh thuộc loại dị ứng có nguyên nhân là sức đề kháng kém, theo Đông y là do chính khí hư. Thực chất là cùng ý. Với Tây y thì điều trị triệu chứng là chủ yếu.
            Tuy nhiên Đông y lại chữa trị tốt hơn vì cái nhìn về tổng thể bao quát hơn. Trong đó khái niệm về Âm Dương là đặc sắc riêng. Vì vậy bài này chỉ trình bày phương hướng điều trị bệnh này theo Đông y mà thôi.
            Theo Đông y tạm chia suyễn ra làm 4 thể: thực nhiệt, thực hàn, hư nhiệt, hư hàn. Tuy nhiên bản chất của suyễn luôn thuộc hư. Sở dĩ có chứng thực vì gặp yếu tố bất lợi cho cơ thể, tương tự như Tây y nhận xét là trên nền bệnh mạn tính có những đợt cấp tính.
-                    Thực nhiệt: triệu chứng dữ dội, bệnh tăng khi gặp yếu tố nóng. Yếu tố thuộc nóng như thời tiết nóng, độ ẩm thấp (hanh khô), món ăn nóng (nhiều năng lượng) như chocolate, các loại trái cây có vị ngọt đậm. Điều trị: tả nhiệt mạnh bằng bộ Giáng, phản chiếu hệ hô hấp, về kỹ thuật thì tùy mức độ bệnh tùy thể trạng bệnh nhân mà chọn cho thích hợp. Kiêng cữ: các yếu tố nóng.
-                    Thực hàn: triệu chứng dữ dội, bệnh tăng khi gặp yếu tố lạnh. Yếu tố lạnh như thời tiết lạnh, độ ẩm cao (ẩm ướt), món ăn ít nhiệt lượng như các loại rau, quả không ngọt lại nhiều nước như các loại dưa… Điều trị: tả hàn mạnh bằng bộ Thăng, phản chiếu hệ hô hấp. Về kỹ thuật thì tùy chọn cho thích hợp. Kiêng cữ: các yếu tố lạnh, các yếu tố ẩm ướt.
-                    Hư nhiệt: triệu chứng nhẹ nhàng, bệnh tăng khi gặp yếu tố nóng, yếu tố gây mất sức. Điều trị: lương bổ tạng phủ gốc bệnh bằng bộ Bổ Âm huyết nếu huyết hư, bằng bộ Bổ trung nếu khí hư. Nếu cần thì thêm phản chiếu hệ hô hấp. Kỹ thuật tùy chọn. Kiêng cữ các yếu tố gây tăng bệnh.
-                    Hư hàn: triệu chứng nhẹ nhàng, bệnh tăng khi gặp yếu tố lạnh, khi gặp yếu tố gây mất sức. Ôn bổ tạng phủ gốc bệnh bằng bộ Bổ Âm huyết nếu huyết hư, bằng bộ Bổ trung nếu khí hư. Nếu cần thì thêm phản chiếu hệ hô hấp. Kỹ thuật tùy chọn. Kiêng cữ các yếu tố gây tăng bệnh.
Cách phân định này dùng trong việc cắt cơn suyễn đang lên cao. Điều trị lâu dài thì khác.
            Cách phân loại này chỉ áp dụng cho bệnh lý gây ra do ảnh hưởng của tổng thể lên hệ hô hấp (sức đề kháng kém - theo Tây y) chứ không do một tạng phủ nào bị lệch lạc gây ra. Do đó trên lâm sàng ta ít gặp suyễn thực, nếu gặp cũng chữa khá dễ dàng vì thường là bệnh mới phát hoặc phát đã lâu nhưng tổng trạng bệnh nhân chưa hư. Chỉ khi chữa không được, để lâu ngày tổng trạng bị suy yếu thì bệnh chuyển sang thể hư và khó chữa hơn. Rất khó khi thể trạng suy nặng. Bốn thể bệnh này không có quy luật theo giờ giấc trong ngày, mùa trong năm hay theo món ăn riêng biệt mà chỉ theo quy luật nóng và lạnh hay mất sức mà thôi.
            Nếu do các tạng phủ bị lệch lạc gây ra thì ta lại có các yếu tố liên quan đến tạng tượng hay chu kỳ kinh khí. Phân biệt thực và hư bằng triệu chứng bệnh của ngũ tạng, ngũ hành chính vị và xung khắc. Tuy nhiên cần lưu ý về khía cạnh âm dương, khí huyết.
THÍ DỤ:
-                    Lên cơn khi gặp gió, khi tức giận, khi ăn vị chua – vị cay (Can hợp với Tỳ gây bệnh), vào mùa Xuân, mùa Thu, vào giờ Sữu, giờ Mùi…v.v.. Là liên quan đến Can.
-                    Lên cơn khi gặp nóng hay lạnh, khi vui mừng, khi ăn vị khét - vị mặn (Tâm Tỳ hợp bệnh), vào mùa Hạ, mùa Đông, vào giờ Ngọ, giờ Tý. Là liên quan đến Tâm.
-                    Lên cơn khi gặp ẩm ướt hay khô hanh, khi lo nghĩ, sau khi ăn xong, vào mùa Trưởng hạ hay vào mùa mưa, vào mùa Xuân, vào giờ Tỵ, giờ Hợi…v.v.. Là thuộc Tỳ.
-                    Lên cơn khi gặp mùi lạ, khi buồn rầu, khi ăn vị cay – vị khét (Phế Tỳ hợp bệnh), vào mùa Thu, mùa Hạ, vào giờ Dần, giờ Thân. Là liên quan tới Phế.
Ở đây tôi chỉ đề cập đến các tạng, còn phủ thì sao ? Với phủ thì cũng tương tự như vậy chỉ khác giờ lên cơn mà thôi. Như với các triệu chứng của Can Mộc nhưng giờ lên cơn là giờ Tý – Ngọ thì ta phải nghĩ đến phủ Đởm chứ không phải tạng Can. Nhưng đừng quên Can Đởm là biểu lý. Tương tự cho các phủ khác.
            Vậy, đối với bệnh suyễn ta cần phân biệt hàn nhiệt hư thực và tạng phủ nào bị trục trặc để điều chỉnh lại cho cân bằng dựa theo nguyên tắc HƯ THÌ BỔ, THỰC THÌ TẢ. Bệnh hàn thì dùng ôn, bệnh nhiệt thì dùng lương. Và như vậy không thể có phác đồ đặc hiệu cho bệnh Suyễn mà chỉ có phương án điều trị cho bệnh Suyễn mà thôi, vì cơ thể bệnh nhân và căn nguyên bệnh không ai giống ai.
            Thí dụ:
1)                  Bệnh thuộc Can khi bệnh nhân lên cơn mỗi khi tức giận, hoặc ăn chất chua hoặc khi trời trở gió nhiều. Thường lên cơn giờ Sửu (Can thực) hoặc giờ Mùi (Can hư).
2)                  Bệnh thuộc Thận khi trời lạnh hoặc khi sợ hãi hoặc ăn mặn và thường lên cơn giờ Dậu (thực) hay giờ Mão (hư).
Tương tự cho các tạng phủ khác. Vì thế không có phác đồ mà chỉ có nguyên tắc điều trị: dựa theo triệu chứng của Đông y mà chẩn đoán tạng phủ gốc bị bệnh hư hay thực, điều chỉnh tạng phủ đó là chính, phế là phụ.
            Bổ khí cho tạng phủ: 127, 7 - +, 50, 19, 37, 1, 0 - +. Nếu muốn bổ Dương thì làm ấm các huyệt.
            Tả khí cho tạng phủ: 124 + -, 34 + -, 106, 26, 61 + -, 156 + -.
            Bổ Âm bổ Huyết cho tạng phủ thì dùng Bổ Âm Huyết, chỉ thay đổi kỹ thuật cho thích hợp.
            Thí dụ: Nếu do Can thực thì tả Can: 124, 34, 106, 26, 61, 156, 50. Nếu do Can khí hư thì bổ Can khí: 127, 7 - +, 50, 19, 39, 37, 1, 0 - +, 41, 233, 50. Nếu do Can huyết hư thì dùng bộ Bổ Âm huyết, 50, 70.
            Tương tự cho các tạng phủ khác./.