Diện Chẩn chữa bệnh phì đại tuyến tiền liệt
Bệnh phì đại tuyến tiền liệt và bệnh nhân đường tiết niệu thường cảm thấy tiểu khó, tiểu từ từ, tiểu lúc đầu dễ, nửa chừng chảy chậm rồi nhỏ giọt mấy phút mới hết, tiểu 40 lần trong đêm, ban ngày cũng mấy chục lần .v.v.v. Đem xét nghiệm nước tiểu, Siêu âm tuyến tiền liệt thấy Uxơ phì đại do đó phải can thiệp bằng phẫu thuật. Bệnh nhân nào cũng sợ phẫu thuật vì tuổi tác
Khi chữa bệnh phì đại tuyến tiền liệt bằng Diện chẩn, những người mới học thường mắc sai lầm là, chỉ lật sách tìm bệnh rồi cứ theo đó mà làm, trúng thì cho là hay, không thì nghĩ môn này không có hiệu quả - thật đáng tiếc! Khi chữa bằng Diện chẩn, phải ứng dụng tất cả các nguyên lý từ phản chiếu, đồng hình, đồng ứng, vận dụng cả những huyệt đặc trị thì cơ may đến 90%.
Các triệu chứng trên có thể chữa Diện Chẩn thành công, vì tôi đã nhiều lần thành công đối với bệnh nhân phì đại tuyến tiền liệt được bác sỹ hoặc bênh viện chỉ định giải phẫu.…
Phép chữa phì đại tuyến tiền liệt thật đơn giản:
- Dùng dò Sao chổi (đầu một đinh là dương, đầu 3 đinh là âm). Dùng đầu âm tác động Sáu vùng phản chiếu hệ bạch huyết, mỗi vùng gạch 30 đến 40 cái, quan trọng nhất là 2 bên viền mũi và hai bên đường pháp lệnh, vì nới đó phản chiếu tuyến tiền liệt, gạch rãnh Nhân trung từ đầu chân mũi đến đầu môi 30 lần.
- Dùng cây lăn bé lăn chân tóc trán (H.126) và ụ cằm (H.87), cuối lòng bàn tay, cuối lòng bàn chân nơi phản chiếu Bàng quang.
- Dùng búa Mai hoa gõ vào vùng phản chiếu Bàng quang mỗi vùng 30 giây rồi hơ ngải cứu, mỗi vị trí hơ nóng 3 lần.
- Day ấn các huyệt tiêu U bướu, tiêu độc gồm: 41- 127- 19- 143- 37- 38.
- Trị tiểu không cầm được ấn các huyệt: 0+- 138+- 16+- 87. (ấn mỗi huyệt 30 giây).
Kết quả chữa bệnh phì đại tuyến tiền liệt:
Điều trị theo phác đồ phì đại tuyến tiền liệt trên thời gian 7 đến 15 ngày bệnh sẽ chuyển biến dần rồi khỏi. Xin lưu ý: Trong quá chữa trị, bệnh có lúc giảm, lúc đau tăng về triệu chứng xin đừng lo ngại.
Nha trang 14-11-2008
Võ công Tú
Phó chủ nhiệm CLB Diện chẩn Tp Nha Trang Khánh hoà
(Từ: Tập san Diện chẩn – Số 6 – 2008)