In bài này

Tư liệu -27- Bộ Bổ Âm Huyết

Tạ Minh.
 
            Âm huyết kém là nguyên nhân của rất nhiều bệnh chứng. Việc chẩn đoán âm huyết kém không khó. Khó là bồi bổ cho đạt yêu cầu. Có những trường hợp bịnh nhân đã uống thuốc bổ Đông dược hoặc Tây dược hằng mấy tháng vẫn không hề chuyển biến! Thật là khó hiểu và bất hợp lý. Trên lâm sàng không ít lần chúng ta bế tắc khi gặp trường hợp này. Bệnh vì âm huyết suy mà không bổ được thì không thể trị dứt bệnh mà chỉ làm giảm chứng. Thế thì cứ phải gặp nhau hoài, làm bịnh nhân nản lòng mà thầy thuốc nản hơn, đôi khi càng trị theo chứng lại càng làm âm huyết suy thêm. Cho nên khi xây dựng được bộ huyệt BỔ ÂM HUYẾT này, tôi vô cùng mừng rỡ vì qua thực tế sử dụng thấy kết quả rất tốt ngoài ý muốn ban đầu. Xin trình bày để chúng ta cùng dùng, giúp cho bịnh nhân.
I/-        PHÁC ĐỒ
            22, 127, 63M + -, 17 + -, 113 + -, 7 + -, 63, 50, 19, 39, 37, 1, 290 + -, 0 + -.   
            Không phải lúc nào cũng sử dụng hết các huyệt trên, mà chỉ dùng những huyệt có báo bệnh.
Phác đồ Diện Chẩn Tạ Minh - Bộ Bổ Âm Huyết Phác đồ Diện Chẩn Tạ Minh - Bộ Bổ Âm Huyết
Phác đồ Diện Chẩn Tạ Minh - Bộ Bổ Âm Huyết Phác Đồ Diện Chẩn Tạ Minh - Bộ Bổ Âm Huyết
II/-       KỸ THUẬT
            Trên lâm sàng thường có hai thể khác nhau: hàn và nhiệt.
-                    Hàn chứng thì người mát cho tới lạnh, cảm giác tương đối sợ lạnh hơn sợ nóng.
-                    Nhiệt chứng thì người ấm đến nóng, cảm giác tương đối sợ nóng hơn sợ lạnh.
Khi âm huyết kém thì nóng lạnh đều sợ. Thiên hạ chưa nóng mình đã nóng, chưa lạnh thì mình đã lạnh nên tôi dùng chữ tương đối.
1)                  Hàn chứng: ngải cứu hơ mỗi huyệt nóng một lần không xoa dầu, theo thứ tự trên. Nếu BN không bị hàn rõ rệt thì chỉ cần day có một ít dầu cao. LƯU Ý: đã day dầu thì không hơ, đã hơ thì không chấm dầu vì sẽ gây quá liều.
2)                  Nhiệt chứng: dùng que dò chấm vaseline day mỗi huyệt 30 cái nhè nhẹ theo thứ tự như trên (không cần day mạnh cho thật đau - vaseline ở đây chỉ nhằm bôi trơn chứ không có tác dụng gì).
III/-     TÁC DỤNG VÀ CHỦ TRỊ
            Qua thực tế áp dụng từ năm 1991 đến nay, tôi nhận thấy bộ huyệt này có các tác dụng như sau:
-                    Giúp biết đói khi tới giờ ăn, ăn ngon miệng, tiêu hóa tốt, hấp thu tốt, biến dưỡng tốt.
-                    Sinh tân dịch, sinh cơ nhục, tạo hồng cầu.
-                    Điều hòa thành phần máu.
Qua đó, nó trị được các bệnh do huyết hư suy, thiếu tân dịch như: suy nhược cơ thể do ăn kém hoặc ăn tốt nhưng không hấp thu nên vẫn gầy kể cả các trường hợp đã uống nhiều thuốc bổ Đông Tây y; thiếu hồng cầu; thiếu huyết sắc tố trong máu, thiếu huyết tương; tiểu đường; cholesteron trong máu cao; giai đoạn đầu của các bệnh thuộc về sự thoái hóa (như thoái hóa võng mạc, thoái hóa thần kinh thị giác…); táo bón kinh niên dạng âm hư (phân dê)…
IV/-     ỨNG BIẾN LÂM SÀNG
-                    Thông thường, chỉ sau ba lần điều trị là bịnh nhân đã bắt đầu chuyển biến như thấy đói bụng, ăn ngon miệng hơn… nhưng kết quả cuối cùng lên cân thì không nhanh được mà phải có thời gian.
-                    Nếu sau ba lần dùng bộ huyệt này mà không thấy hiệu ứng gì thì thường do cơ thể ứ đọng thủy thấp quá nhiều, cần trừ thấp trước rồi bổ âm huyết sau (xem bài “Trừ đàm thấp thủy bằng DC-ĐKLP”).
-                    Trong bệnh tiểu đường và cholesteron trong máu cao ta cần thêm huyệt 347.
-                    Nếu thiếu hồng cầu hoặc huyết sắc tố ta phải dùng trọn tam giác Tỳ 37, 40, 481.
V/-       KẾT LUẬN
            Bộ BỔ ÂM HUYẾT này hiệu quả rất tốt trong nhiệm vụ bồi bổ cơ thể đơn thuần. Riêng khi dùng để chữa bệnh thì cần kết hợp linh động với các phác đồ khác một cách khéo léo mới mong đạt hiệu quả cao. Tuy nhiên với bịnh nhân trên 70 tuổi thì vấn đề khó khăn hơn.
TP. Hồ Chí Minh, 1-1-1999.